Bệnh nhân nội trú là gì? Các công bố khoa học về Bệnh nhân nội trú

Bệnh nhân nội trú là người bị bệnh và được tiếp tục điều trị và quan sát trong một bệnh viện hoặc cơ sở y tế trong thời gian dài, thường từ vài ngày đến vài tuầ...

Bệnh nhân nội trú là người bị bệnh và được tiếp tục điều trị và quan sát trong một bệnh viện hoặc cơ sở y tế trong thời gian dài, thường từ vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân nội trú được chăm sóc bởi các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế chuyên nghiệp, và được theo dõi sát sao để đảm bảo sự tiến triển của bệnh và hiệu quả của điều trị.
Bệnh nhân nội trú là người được nhập viện vào một bệnh viện hoặc cơ sở y tế và ở lại trong một khoảng thời gian dài để nhận sự chăm sóc và điều trị trong môi trường y tế an toàn và chuyên nghiệp hơn.

Khi một bệnh nhân trở thành bệnh nhân nội trú, điều này thường xảy ra khi bệnh trạng của họ đòi hỏi sự quan sát, chẩn đoán, và/hoặc điều trị liên tục và liên quan đến quyền lợi của họ. Bệnh nhân nội trú thường có các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, cần phải được theo dõi chặt chẽ và nhận sự quan tâm đúng giờ.

Trong quá trình nội trú, bệnh nhân thường có một phòng riêng để nghỉ ngơi và phục hồi. Họ được theo dõi và theo lịch trình bởi các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế. Chúng cũng có thể được thực hiện các xét nghiệm, chẩn đoán và điều trị với các phương pháp và thiết bị y tế hiện đại.

Bệnh nhân nội trú cũng có thể được cung cấp dịch vụ chăm sóc bổ sung, chẳng hạn như phục hồi chức năng, liệu pháp tâm lý, dịch vụ dinh dưỡng và hỗ trợ xã hội, để đảm bảo việc phục hồi và sự phục vụ toàn diện cho bệnh nhân.

Thời gian nội trú có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe và quá trình điều trị của bệnh nhân. Sau khi bệnh nhân nội trú, họ có thể được giám sát định kỳ và theo dõi sau khi xuất viện để đảm bảo việc phục hồi hoàn toàn và không có biến chứng.
Đối với bệnh nhân nội trú, quá trình chăm sóc và điều trị thường được tổ chức và được theo dõi chặt chẽ trong một môi trường y tế chuyên nghiệp. Dưới đây là một số chi tiết cụ thể hơn về bệnh nhân nội trú:

1. Chẩn đoán và đánh giá ban đầu: Khi bệnh nhân nhập viện, bác sĩ sẽ tiến hành các bài kiểm tra, xét nghiệm và chẩn đoán ban đầu để đánh giá tình trạng sức khỏe và xác định phương pháp điều trị phù hợp.

2. Quản lý và giám sát: Bệnh nhân nội trú sẽ được theo dõi và quản lý chặt chẽ bởi các bác sĩ và y tá. Họ sẽ theo dõi tình trạng sức khỏe, tiến trình bệnh và hiệu quả của điều trị thông qua việc đo mức độ đau, huyết áp, nhịp tim, nhiệt độ, cân nặng, và các chỉ số lâm sàng khác.

3. Điều trị và quá trình phục hồi: Bệnh nhân sẽ được thực hiện các liệu pháp điều trị như dùng thuốc, tiêm chích, phẫu thuật, điện giác, hay bằng tia X hoặc tia cực tím. Họ cũng có thể nhận được liệu pháp hồi phục, bao gồm vật lý trị liệu, chẩn đoán hình ảnh, xâm lấn tế bào, hoặc dịch vụ tâm lý.

4. Chăm sóc hỗ trợ: Bệnh nhân nội trú thường được cung cấp các dịch vụ chăm sóc hỗ trợ như dinh dưỡng, dịch vụ xã hội, tư vấn tâm lý, và hỗ trợ xã hội. Điều này nhằm đảm bảo rằng bệnh nhân nhận được chăm sóc toàn diện và hỗ trợ trong quá trình phục hồi.

5. Giao tiếp và giáo dục: Các nhân viên y tế sẽ giao tiếp thường xuyên với bệnh nhân để cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe, phương pháp điều trị, và các quy định và quy trình trong bệnh viện. Người bệnh và gia đình sẽ được giáo dục về bệnh, chính sách và quy trình, thuốc, chế độ dinh dưỡng và những hướng dẫn cần thiết để quản lý tình trạng sức khỏe sau khi xuất viện.

6. Xuất viện và theo dõi: Khi tình trạng sức khỏe của bệnh nhân được cải thiện đáng kể và đáp ứng đủ điều trị, họ sẽ được xuất viện. Tuy nhiên, sau khi xuất viện, bệnh nhân thường sẽ được theo dõi thường xuyên để đảm bảo rằng họ tiếp tục phục hồi tốt và không có biến chứng sau điều trị.

Trên đây là một số chi tiết về bệnh nhân nội trú. Quá trình này được thiết kế để cung cấp sự chăm sóc và điều trị chuyên nghiệp, nhằm giúp bệnh nhân phục hồi và hồi phục sức khỏe.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh nhân nội trú":

Chảy máu não do tăng huyết áp với mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch không thể phát hiện được ở bệnh nhân nhận điều trị tiêm nội nhãn aflibercept cho phù hoàng điểm trên cả hai mắt: báo cáo trường hợp Dịch bởi AI
Journal of Medical Case Reports - - 2021
Tóm tắt Đặt vấn đề

Các tiêm nội nhãn thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch thường được sử dụng trong điều trị các bệnh lý hoàng điểm, bao gồm cả phù hoàng điểm do tiểu đường. Các thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch có thể đi vào tuần hoàn hệ thống sau khi tiêm nội nhãn và có vẻ như làm giảm mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong tuần hoàn. Tuy nhiên, hiện tại chưa rõ liệu điều này có thể gây ra bất kỳ sự kiện phụ hệ thống nào hay không.

Trình bày trường hợp

Một người đàn ông Nhật Bản 70 tuổi được chẩn đoán mắc phù hoàng điểm do tiểu đường ở cả hai mắt đã được điều trị bằng các tiêm nội nhãn thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch. Một tháng sau khi nhận hai mũi tiêm aflibercept cách nhau 1 tuần cho phù hoàng điểm ở cả hai mắt, bệnh nhân phàn nàn về cơn đau đầu cấp tính nghiêm trọng. Bệnh nhân được chẩn đoán mắc chảy máu não do tăng huyết áp ở thùy chẩm dựa trên kết quả huyết áp tăng cao 195/108 mmHg cùng với các kết quả chụp CT và MRI não. Bệnh nhân đã được điều trị bằng cách tiêm tĩnh mạch nicardipine hydrochloride để hạ huyết áp hệ thống. Hai ngày sau cơn đột quỵ, bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng đường uống 80 mg/ngày telmisartan, duy trì trong 3 ngày, và liều telmisartan được giảm xuống 40 mg/ngày sau đó. Huyết áp của ông nhanh chóng giảm xuống 130/80 mmHg, và cơn đau đầu nghiêm trọng của ông đã biến mất. Một năm sau cơn đột quỵ não, telmisartan được ngừng do huyết áp của ông ổn định ở mức bình thường. Mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương của ông được đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch gắn enzyme đặc hiệu trước và sau các tiêm nội nhãn aflibercept. Ngay trước các mũi tiêm, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch là 28 pg/ml, nhưng nó nhanh chóng giảm xuống dưới giới hạn phát hiện trong vòng 1 tuần, và duy trì ở mức đó trong hơn 2 tháng. Hai ngày trước khi xảy ra chảy máu não, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương của ông nằm dưới giới hạn phát hiện, và 2 tháng sau cơn đột quỵ, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương phục hồi lên 41 pg/ml.

Kết luận

Trường hợp này cho thấy rằng tăng huyết áp và sự chảy máu não do đó có thể xảy ra ở bệnh nhân mắc phù hoàng điểm do tiểu đường khi mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương bị giảm xuống dưới giới hạn phát hiện trong một thời gian dài sau khi tiêm cục bộ các tác nhân chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch vào khoang dịch kính. Do đó, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương bị giảm nghiêm trọng có thể là một yếu tố rủi ro cao hơn để phát triển đột quỵ, tình trạng hiếm gặp. Các bác sĩ nhãn khoa nên nhận thức được khả năng giảm nghiêm trọng mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương và sự gia tăng huyết áp dẫn đến sau khi tiêm nội nhãn một thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch. Nếu có thể theo dõi mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương một cách dễ dàng và nhanh chóng trong quá trình điều trị, điều này sẽ giúp ngăn ngừa các sự kiện bất lợi.

NGHIIÊN CỨU TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN TIỀN HẢI NĂM 2014
Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm - Tập 12 Số 2 - Trang 50-57 - 2016
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số chỉ số hóa sinh dinh dưỡng cho người bệnh từ 18 tuổi trở lên đang điều trị nội trú tại bệnh viện Đa khoa huyện Tiền Hải năm 2014. Phương pháp: Dịch tễ học mô tả qua một cuộc điều tra cắt ngang trên đối tượng bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải. Kết quả: Trong 391 bệnh nhân gồm 111 bệnh nhân trên 65 tuổi, 280 bệnh nhân từ 65 tuổi trở xuống. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng: theo BMI (bệnh nhân SDD có BMI<18,5), SDD là 21,3%, không có sự khác biệt giữa khoa Nội với khoa Ngoại và giới với p>0,05; đánh giá theo SGA (Subjective Global Assessment), tỷ lệ bệnh nhân nguy cơ SDD khoa Nội 39,2% thấp hơn khoa Ngoại (62%), với p<0,05; theo MNA (mini nutritional assessment), người bệnh có nguy cơ SDD là 43,3%, SDD là 13,5%, không có sự khác biệt giữa khoa và theo giới với p>0,05. Tỷ lệ thiếu máu của bệnh nhân dưới 65 tuổi 25,7% thấp hơn trên 65 tuổi (34,2%), tỷ lệ thiếu Albumin bệnh nhân dưới 65 tuổi 1,1% thấp hơn bệnh nhân trên 65 tuổi (3,6%). Trong số bệnh nhân SDD (theo BMI), đánh giá bằng SGA có 35,2% bình thường. Trong số bệnh nhân bình thường (theo BMI) có 52,2% SDD và nguy cơ SDD theo SGA. Kết luận: Cần phải sử dụng các phương pháp đánh giá tổng thể tình trạng dinh dưỡng theo chủ quan: SGA, MNA và BMI phối hợp với các xét nghiệm sinh hóa huyết học để phát hiện SDD và nguy cơ SDD để đánh giá đúng tình trạng dinh dưỡng và phục hồi dinh dưỡng cho người bệnh tại bệnh viện
#Tình trạng dinh dưỡng #chỉ số hóa sinh dinh dưỡng #bệnh nhân nội trú
KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH VÀ SỰ ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH TẠI KHOA NỘI TỔNG HỢP BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2021-2022
Đặt vấn đề: Việc khảo sát tác nhân gây bệnh và tình hình đề kháng kháng sinh cần phải tiến hành thường xuyên, giúp chỉ định kháng sinh phù hợp là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chi phí cũng như sự thành công trong điều trị. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Kháo sát tỷ lệ sử dụng kháng sinh tại Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ; (2) Khảo sát tỷ lệ đề kháng kháng sinh tại khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, 463 bệnh nhân nội trú có điều trị bằng kháng sinh tại khoa Nội Tổng hợp Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, số liệu được nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và phần tích bằng phần mềm R 4.2.3. Kết quả: Trong 463 bệnh nhân, chẩn đoán khi sử dụng kháng sinh có tỷ lệ cao nhất là nhiễm khuẩn đường hô hấp 35,9%, nhóm beta - lactam dược sử dụng nhiều nhất chiếm 65,8%. Đa số phác đồ kháng sinh điều trị là đơn trị liệu chiếm 67,6%. Chủng vi khuẩn phân lập được chiếm tỷ lệ cao nhất là Staphylococcus spp. 31,3%, Streptococcus pneumoniae 16,7%, Klebsiella spp 12,5%, Escherichia coli 10,4%. Kết luận: Kháng sinh được sử dụng nhiều nhất là nhóm beta –lactam, fluoroquinolon. Các vi khuẩn đã đề kháng cao với nhiều loại kháng sinh thường dùng (beta –lactam, fluoroquinolone, macrolide).
#Kháng sinh #đề kháng kháng sinh #bệnh nhân nội trú
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA 50 BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 NỘI TRÚ Ở BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2022
Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 đang điều trị nội trú và các yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 50 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại khoa Nội tiết Bệnh viện Thống Nhất. Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá theo chỉ số khối cơ thể BMI, albumin huyết thanh và đánh giá tổng thể chủ quan SGA. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân thừa cân-béo phì chiếm 34% và BMI <18,5 kg/m2 là 20%. Bệnh nhân có albumin < 35 g/L là 70%. Suy dinh dưỡng theo SGA chiếm 90%. Không tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng theo SGA với các bệnh lý-biến chứng, các chỉ số xét nghiệm cận lâm sàng và BMI. Phương pháp đánh giá theo SGA và albumin huyết thanh có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p = 0,035. Kết luận: Suy dinh dưỡng là vấn đề rất phổ biến ở bệnh nhân đái tháo đường nội trú. Cần kết hợp thêm các phương pháp SGA và albumin để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bên cạnh việc sử dụng BMI ở đối tượng này. 
#Tình trạng dinh dưỡng #đái tháo đường #bệnh nhân nội trú #SGA #BMI #albumin huyết thanh
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TRUNG ƯƠNG NĂM 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Mô tả tỷ lệ kiểm soát đường huyết đạt và các liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 391 bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Bệnh nhân được coi là kiểm soát được đường huyết khi chỉ số HbA1c <7%. Kết quả: Tỉ lệ kiểm soát được đường huyết là 39,1%. Không có mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân và khả năng tự kiểm soát được đường huyết. Những người không uống rượu bia và không hút thuốc là có khả năng kiểm soát được đường huyết cao gấp 1,2 lần và 2,5 lần những người có uống rượu bia và hút thuốc lá. Thời gian mắc bệnh và phương pháp điều trị là hai yếu tố có liên quan đến khả năng kiểm soát đường huyết của bệnh nhân. Tỉ lệ bệnh nhân thời gian bị bệnh <5 năm có kết quả kiểm soát được đường huyết đạt cao gấp gần 6 lần (OR=5,9; 95%CI: 2,8-12,5) so với những người mắc bệnh trên 10 năm. Tỉ lệ bệnh nhân điều trị bằng thuốc viên kết hợp Insulin có kết quả kiểm soát được đường huyết cao gấp 2,5 lần so với nhóm chỉ dùng thuốc viên hoặc chỉ dùng Insulin (OR=2,5; 95%CI: 1,6-4,0). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với khoảng tin cậy không chứa giá trị 1. Kết luận: Tỷ lệ kiểm soát được đường huyết của bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao. Thời gian mắc bệnh và phương thức điều trị có ảnh hưởng lớn đến khả năng kiểm soát đường huyết của bệnh nhân.
#Đái tháo đường type 2 #kiểm soát đường huyết #yếu tố liên quan
Đánh giá kết quả chăm sóc bệnh nhân sau lấy sỏi ống mật chủ qua nội soi mật tụy ngược dòng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm người bệnh và phân tích kết quả chăm sóc người bệnh lấy sỏi ống mật chủ  qua nội soi mật tụy ngược dòng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, gồm 111 người bệnh được điều trị lấy sỏi mật qua nội soi mật tụy ngược dòng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 01/2019 đến tháng 07/2019. Kết quả: Tuổi trung bình là 65,59 ± 16,61 tuổi, tỷ lệ nam 56,76%, nữ 43,24%. Tiền sử phẫu thuật lấy sỏi mật 27,03%. Triệu chứng lâm sàng trước can thiệp đau (84,7%), sốt (65,77%), vàng da (61,26%). Hầu hết các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng đều được cải thiện có ý nghĩa sau điều trị can thiệp. Có ít người bệnh phải đặt sonde tiểu, dạ dày và dùng thuốc giảm đau giãn cơ sau can thiệp, tuân thủ chế độ chăm sóc tốt. Thời gian cho ăn trở lại và nằm viện ngắn. Kết luận: Nội soi mật tụy ngược dòng là phương pháp can thiệp ít xâm lấn được sử dụng khá phổ biến trong việc lấy sỏi ống mật chủ, đây là một thủ thuật tương đối an toàn, mang lại nhiều lợi ích, tuy nhiên vẫn có một số rủi ro tiềm ẩn mà quyết định thành công sau can thiệp có sự đóng góp rất lớn của quá trình chăm sóc sức khỏe người bệnh.
#Nội soi mật tụy ngược dòng #sỏi ống mật chủ
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ BẰNG INSULIN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Kiểm soát đường huyết tốt trong điều trị nội trú giúp giảm tỉ lệ tử vong, rút ngắn thời gian nằm viện, giảm tình trạng nhiễm trùng cho bệnh nhân. Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm xác định tỉ lệ bệnh nhân đái tháo đường type 2 kiểm soát được đường huyết đạt mục tiêu điều trị bằng insulin và  tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến việc kiểm soát đường huyết bằng insulin không đạt mục tiêu sau 5 ngày điều trị tại Khoa Nội tiết, bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 151 bệnh nhân ĐTĐ type 2 điều trị nội trú bằng insulin. Kết quả: Sau 5 ngày điều trị, 70,9% bệnh nhân chưa đạt mức đường huyết mục tiêu. Bệnh nhân dùng glucocorticoid, bữa ăn phụ, HbA1c >7%, thời gian mắc bệnh >5 năm có tỉ lệ kiểm soát đường huyết đạt mục tiêu thấp hơn các bệnh nhân khác (p<0,05). Kết luận: Đa số các bệnh nhân chưa kiểm soát được huyết áp mục tiêu sau 5 ngày điều trị. Các yếu tố liên quan đến chưa kiểm soát bao gồm: HbA1c>7%, dùng glucocorticoid, bữa ăn phụ và thời gian mắc bệnh >5 năm.
#Đái tháo đường #HbA1c #Đường huyết
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ỨC CHẾ BƠM PROTON CHO BỆNH NHÂN NỘI TRÚ TẠI KHOA NỘI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH SÓC TRĂNG NĂM 2019-2020
Đặt vấn đề: Thuốc ức chế bơm proton là nhóm thuốc có tác dụng ức chế tiết acid dịch vị, thuốc có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng gây ra do tăng tiết acid dịch vị. Hiện nay do có hiệu quả tốt nên các thuốc ức chế bơm proton thường bị lạm dụng trong một số trường hợp, do đó việc sử dụng thuốc ức chế bơm proton hợp lý đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà điều trị tại bệnh viện. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm sử dụng thuốc ức chế bơm proton; xác định tỷ lệ tương tác thuốc và sử dụng thuốc ức chế bơm proton hợp lý cho bệnh nhân nội trú tại khoa Nội Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Sóc Trăng năm 2019-2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 400 hồ sơ bệnh án có sử dụng thuốc ức chế bơm proton của bệnh nhân nội trú nhập viện tại Khoa Nội bệnh viện Đa khoa Tỉnh Sóc Trăng được kê đơn ít nhất một loại thuốc ức chế bơm proton. Kết quả: Tỷ lệ tương tác thuốc ức chế bơm proton với các thuốc khác là 6,5%, tỷ lệ chỉ định thuốc hợp lý là 97,5%, liều dùng thuốc hợp lý là 99%, đường dùng và thời gian dùng thuốc hợp lý là 100%. Kết luận: Việc chỉ định sử dụng các thuốc ức chế bơm proton hợp lý là hết sức quan trọng, nhằm đảm bảo sức khỏe của người bệnh và giảm bớt chi phí trong điều trị.
#Thuốc ức chế bơm proton #sử dụng thuốc hợp lý
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN QUA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mục tiêu:  Xác định tỉ lệ và các mức độ suy dinh dưỡng (SDD) của bệnh nhân (BN) ung thư bệnh viện đa Khoa Long An theo chỉ số khối cơ thể (BMI), Albumin và lympho bào máu. Xác định các yếu tố liên quan đến SDD theo BMI. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 118 BN ung thư điều trị nội trú tại khoa Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Long An, từ tháng 4 -9/2020; Có chẩn đoán ung thư, có xét nghiệm về Albumin máu, lympho bào máu. Kết quả: Tuổi trung vị BN (66 tuổi), nam 61%; sống tại nông thôn 63,5%. Đánh giá theo lympho bào máu, tỷ lệ 72,9% SDD (nặng 17%; nhẹ và vừa 56,9%). Đánh giá theo Albumin, tỷ lệ 70,3% SDD (nặng 8,5%; nhẹ và vừa 61,8%). Đánh giá theo BMI, tỷ lệ 55,1% SDD (nặng 19,5%; nhẹ và vừa 35,6%). Yếu tố nơi chốn, giảm chức năng vận động và albumin có liên quan đến SDD theo BMI. Người ở thành thị ít bị SDD hơn nông thôn OR=0,5 (KTC95% 0,2-0,9). Những BN bị giảm chức năng vận động mắc SDD cao gấp 3,2 lần so với người không bị giảm chức năng vận động (OR=3,2, KTC95% (1,5-6,8)). BN có albumin <35g/l mắc SDD cao gấp 2,4 lần so với người có albumin ≥35g/l (OR=2,4 (KTC95% 1,1-5,4)). Kết luận:  Đa số BN ung thư bị SDD. Cần tăng cường tư vấn, can thiệp dinh dưỡng kịp thời, đầy đủ. Cần phối hợp nhiều phương pháp đánh giá dinh dưỡng khác nhau để kịp thời phát hiện sớm tình trạng SDD của BN.
#ung thư #SDD #BMI #Albumin #lympho bào máu
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN VIÊM GAN NẰM ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ THÁT BÌNH NĂM 2017
Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng ở đối tượng bệnh nhân viêm gan và lựa chọn phươngpháp đánh giá dinh dưỡng thích hợp cho đối tượng bệnh nhân này. Phương pháp: Nghiên cứutiến cứu và mô tả cắt ngang có phân tích được tiến hành thông qua phỏng vấn, cân và đo chiềucao của 124 bệnh nhân viêm gan điều trị nội trú tại khoa Nội tổng hợp-Bệnh viện Đa khoa Thànhphố Thái Bình năm 2017. Kết quả: Tỷ lệ SDD tính theo BMI là 4,8%; bình thường là 78,2% vàthừa cân-béo phì là 16,9%; trong khi đó tỷ lệ SDD tính theo SGA là 28,2% (SDD nhẹ/vừa: 26,6%;SDD nặng: 1,6%) và bình thường là 71,8%. Kết luận: Bệnh nhân viêm gan có tình trạng SDDcao, đặc biệt là bệnh nhân viêm gan do rượu. Cần có kế hoạch sàng lọc, đánh giá và can thiệpdinh dưỡng thường xuyên tại các khoa lâm sàng, đặc biệt là các nhóm bệnh có nguy cơ cao SDD.
#Tình trạng dinh dưỡng #viêm gan #BMI #SGA #Bệnh viện đa khoa Thái Bình
Tổng số: 164   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10